Pages

Thứ Hai, 15 tháng 6, 2015

Ngăn chặn Trung Quốc ra sao (I)

Đối với quân đội Hoa Kỳ, ít ra là chuyện “xoay trục” sang Châu Á đã xảy ra rồi. Đến năm 2020, lực lượng hải quân và không quân hoạch định bố trí 60 phần trăm lực lượng của họ ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Ngũ Giác Đài, trong khi đó đang đầu tư một phần lớn những máy bay ném bom tầm xa và tàu ngầm hạt nhân được thiết kế để hoạt động trong vùng có nhiều đe dọa.

Quân đội Trung Quốc tập luyện trong thời tiết âm 22 độ ở tỉnh Heilongjiang, ngày 16 tháng Mười hai năm 2014. Ảnh: Reuters
Quân đội Trung Quốc tập luyện trong thời tiết âm 22 độ ở tỉnh Heilongjiang, ngày 16 tháng Mười hai năm 2014. Ảnh: Reuters
Những sự chuyển đổi này rõ ràng có dự tính để kiềm chế một Trung Quốc ngày càng táo tợn hơn. Hơn nữa có lý do của nó: những tuyên bố chủ quyền bành trướng của Bắc Kinh đe dọa gần như tất cả các nước dọc theo vùng thường biết đến là “chuỗi đảo thứ nhất” khoanh vùng nhiều phần của Nhật Bản, Philippines, và Đài Loan—tất cả được Washington phải có bổn phận bảo vệ. Thế nhưng để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc có hiệu quả, Ngũ Giác Đài buộc phải làm hơn nữa. Những năng lực đang lên của Trung Quốc có chủ đích làm thui chột khả năng của Washington lo liệu yểm trợ quân sự cho đồng minh và đối tác. Dẫu cho việc ngăn chặn bằng viễn cảnh của trừng phạt, thông qua hình thức không tập và phong tỏa hải quân, có một vai trò đáng kể trong việc làm nản chí chủ nghĩa phiêu lưu của Trung Quốc, mục tiêu của Washington và đồng minh và của đối tác nên là đạt được mục tiêu ngăn chặn bằng việc phủ nhận—để thuyết phục cho được Bắc Kinh rằng là họ đơn giản không thể đạt được các mục tiêu bằng vũ lực.

Tận dụng khả năng tiềm tàng của các lực lượng lục quân của Hoa Kỳ, đồng minh, và đối tác, Washington có thể đạt được mục tiêu kể trên tốt nhất bằng việc thiết lập một chuỗi những phòng thủ liên hoàn dọc theo chuỗi đảo thứ nhất—một “Phòng ngự Quần đảo”—và bằng cách đó khước từ Bắc Kinh khả năng để đạt được những mục tiêu theo chủ nghĩa xét lại thông qua xâm lược hoặc cưỡng chiếm.

Những hiểm họa của Chủ nghĩa Xét lại

Trung Quốc tuyên bố rằng sự trỗi dậy của họ có chủ đích hòa bình thế nhưng hành xử của họ lại cho thấy một câu chuyện khác hẳn: rằng một cường quốc mới nổi đang tìm cách thống lĩnh phía tây Thái Bình Dương. Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền không chỉ đối với Đài Loan mà còn cả Quần đảo Senkaku của Nhật Bản (được biết là Điếu Ngư Quần đảo ở Trung Quốc) và hầu hết 4.3 triệu km vuông chiếm phần lớn Biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa (Biển Đông–ND). Đây là nơi mà sáu quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và hàng hải. Và Trung Quốc chẳng ngượng ngùng gì về chuyện theo đuổi những mục tiêu đó. Ví dụ vào năm 2010, bộ trưởng bộ ngoại giao lúc bấy giờ là Dương Khiết Trì gạt bỏ những quan ngại về sự bành trướng của Trung Quốc trong chớp mắt “Trung Quốc là một nước lớn và những nước khác là nước nhỏ, và đó là một thực tế.”

Nói đến chuyện Bắc Kinh bắt nạt các nước khác gần đây ở Biển Đông. Vào tháng 3 năm 2014, tàu hải giám của Trung Quốc ngăn cản tàu của Philippines không cho tiếp cận các tiền đồn của họ ở Quần đảo Trường Sa. Hai tháng sau đó, Trung Quốc di chuyển một giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đụng độ với tàu cá của Việt Nam. Những hành động này lặp lại những vụ trước đó ở Biển Hoa Đông. Vào tháng 10 năm 2010, để trả đũa cho việc bắt giữ thuyền trưởng tàu đã đâm vào hai tàu duyên của Nhật Bản, Trung Quốc tạm thời không xuất khẩu đất hiếm sang Nhật Bản—đất hiếm là nguyên liệu cần thiết để sản xuất điện thoại di động và máy tính. Và vào tháng 11 năm 2013, Trung Quốc đơn phương tuyên bố “vùng nhận dạng phòng không” lên không phận thuộc quần đảo Senkaku đang trong tranh chấp và những vùng khác của Biển Hoa Đông buộc các máy bay phải tuân theo quy định không lưu của họ. Họ cảnh báo rằng sẽ có hành động quân sự đối với máy bay không tuân thủ quy định của họ.

Một số đã cho rằng một khi sức mạnh quân sự của họ lớn mạnh hơn và các nhà lãnh đạo của họ cảm thấy an tâm hơn, Trung Quốc sẽ tiết chế những hành động như vậy. Thế nhưng điều ngược lại xem ra có vẻ đúng hơn. Quả thực là những hành động khiêu khích của Bắc Kinh đã trùng khớp với sự khuyếch trương dữ dội sức mạnh quân sự của họ. Trung Quốc đang đầu tư vào một số năng lực mới mà chúng đặt ra một mối đe dọa trực tiếp cho ổn định của khu vực. Lấy ví dụ Quân đội Giải phóng Nhân dân (QĐGPND) Trung Quốc đang tăng cường những khả năng của cái gọi là chống xâm nhập, phủ nhận vùng kiểm soát nhằm để ngăn chặn quân đội các nước khác khỏi chiếm giữ hoặc di hành qua những vùng lãnh thổ trải rộng với mục đích hiển nhiên là làm cho vùng Tây Thái Bình Dương thành một vùng không lối thoát cho quân đội Hoa Kỳ. Điều này bao gồm chuyện phát triển những biện pháp để nhắm đến những hệ thống bộ tư lệnh của Ngũ giác Đài mà chúng phụ thuộc mạnh mẽ vào vệ tinh và Internet để phối hợp hành quân và hậu cần. QĐGPND đã có tiến bộ đáng kể về mặt này trong những năm gần đây như thử nghiệm tên lửa chống vệ tinh, dùng laser để làm mù vệ tinh của Hoa Kỳ, và phát động những vụ tấn công mạng tinh vi vào hệ thống mạng của quốc phòng Hoa Kỳ.

Trung Quốc cũng đang tăng cường khả năng của họ để nhắm đến những quân cụ và giới hạn khả năng của Hải Quân Hoa Kỳ hoạt động trong hải phận quốc tế. QĐGPND đã có tên lửa đạn đạo quy ước và tên lửa hành trình có thể đánh các cơ sở quan trọng của Hoa Kỳ trong khu vực như Căn cứ Không quân Kadena ở Okinawa, Nhật Bản. Và họ đang phát triển máy bay tàng hình có khả năng tấn công nhiều mục tiêu dọc theo chuỗi đảo thứ nhất. Để phát hiện và nhắm bắn các chiến hạm ở tầm xa hơn, QĐGPND Trung Quốc đã triển khai các trạm radar mạnh mẽ và vệ tinh do thám cùng với máy bay không người lái có thể thi hành các nhiệm vụ trinh sát tầm xa. Và để theo dõi các hàng không mẫu hạm cũng như các chiến hạm bảo vệ chúng, hải quân Trung Quốc đang tậu tàu ngầm võ trang với ngư lôi tối tân và tên lửa hành trình được thiết kế để đánh tàu tầm xa.

Những hành động của Bắc Kinh không thể thanh minh như thể là một phản ứng đáp trả việc tăng cường lực lượng quân sự của Hoa Kỳ. Trong thập niên vừa qua, Washington đã tập trung sức lực và tài nguyên chủ yếu vào việc yểm trợ quân đội ở Afghanistan và Iraq. Ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ, chiếm ở mức trên bốn phần trăm GDP của quốc gia trong những năm gần đây, được dự đoán là sẽ sụt giảm xuống dưới hơn ba phần trăm vào cuối thập niên này. Nói đơn giản là Ngũ giác Đài đang cắt giảm các năng lực quân sự trong khi QĐGPND [Trung Quốc] thì đang tăng cường chúng.

Dẫu cho nếu quá khứ là đoạn mở đầu, Trung Quốc sẽ không tìm cách giải quyết những mục tiêu bành trướng của họ bằng gây hấn công khai. Chiếu theo tập quán chiến lược của họ, họ muốn chậm mà chắc dịch chuyển cán cân lực lượng quân sự khu vực theo chiều có lợi cho họ. Điều này nhằm để khu vực chẳng có lựa chọn nào khác ngoài chuyện phục tùng cưỡng bức của Trung Quốc. Phần nhiều là các quốc gia láng giềng của Trung Quốc tin rằng cam kết ngoại giao và ràng buộc kinh tế sẽ chẳng làm suy chuyển thực tế đơn giản này. Nhiều quốc gia trong số đó, kể cả Nhật Bản, Philippines, và Việt Nam, đang tăng cường chú trọng quân đội của họ vào nhiệm vụ chống lại những tham vọng quân sự của Trung Quốc. Họ biết rõ mười mươi là những hành động riêng lẻ sẽ không đủ để ngăn chặn Bắc Kinh khỏi việc xúc tiến tham vọng của họ. Chỉ có yểm trợ trang thiết bị của Hoa Kỳ họ mới có thể thiết lập một mặt trận chung nhằm ngăn chặn Trung Quốc khỏi những hành động xâm lược hoặc cưỡng chiếm.

Ngăn chặn bằng việc Khước từ

Nếu Washington muốn làm thay đổi tính toán của Bắc Kinh, họ phải phủ nhận Trung Quốc khả năng kiểm soát không phận và hải phận quanh chuỗi đảo thứ nhất. Do là QĐGPND [Trung Quốc] sẽ phải làm chủ cả hai chiến trường kể trên để cô lập quần đảo. Hoa Kỳ cũng phải tích hợp hệ thống chiến trường của đồng minh và tăng cường khả năng của họ—cả hai sẽ hỗ trợ cho việc cân bằng những nỗ lực của QĐGPND nhằm phá vỡ sự ổn định của cân bằng quân sự khu vực. Nói chung thì những mục tiêu đó có thể đạt được bằng các lực lượng trên bộ mà chúng sẽ không thay thế những lực lượng không quân và hải quân mà hỗ trợ họ thêm.

Khi nói đến phòng không, các quốc gia dọc theo chuỗi đảo thứ nhất có thể củng cố khả năng của họ để phủ nhận kiểm soát của Trung Quốc đối với không phận bằng việc triển khai các đơn vị lục quân trang bị với tên lửa đánh chặn tầm ngắn cơ động và tương đối đơn giản (ví dụ như tên lửa Evolved Sea Sparrow–Én Biển đời mới–yểm trợ bởi các hệ thống radar GIRAFFE để phát hiện mục tiêu). Trong khi đó Lục quân Hoa Kỳ, cùng với các đồng minh như Nhật Bản, có thể sử dụng các hệ thống tầm xa tinh vi hơn có khả năng đánh chặn các tên lửa hành trình của Trung Quốc và hủy diệt các máy bay tối tân của họ. Cho dù không thuộc chuỗi đảo thứ nhất, Việt Nam đã đang nâng cấp khả năng chống xâm nhập không phận và có thể hỗ trợ vào nỗ lực phòng thủ chung lớn hơn.

Rồi thì còn có nhiệm vụ khước từ QĐGPND quyền kiểm soát hải phận mà họ sẽ cần để tiến hành những cuộc hành quân tấn công các hòn đảo. Các thành viên thâm niên của Quốc hội đã khuyến khích Lục quân Hoa Kỳ xem xét phục hồi lại lực lượng pháo binh cho phòng vệ duyên hải, một nhiệm vụ mà họ đã từ bỏ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Ý tưởng thì thật đơn giản và có tính thuyết phục. Thay vì phải mạo hiểm phái tàu chiến vào trong tầm của lực lượng phòng thủ của QĐGPND hoặc tái phối trí tàu ngầm từ những nhiệm vụ quan trọng hơn, Hoa Kỳ và các đồng minh có thể dựa vào các lực lượng lục quân có căn cứ dọc theo chuỗi đảo thứ nhất và vũ trang với các bệ phóng lưu động và tên lửa chống hạm để đảm nhiệm các sứ mệnh như vậy. Quân đội Nhật Bản đã làm y như vậy; họ triển khai những đơn vị tên lửa hành trình chống hạm ở ven bờ ở một số đảo của quần đảo Ryukyu trong những cuộc tập trận. Việt Nam đã triển khai những hệ thống tương tự. Các quốc gia tiền phương khác có thể theo đó mà làm một cách độc lập hoặc là với sự hỗ trợ tài chính, huấn luyện, và kỹ thuật của Hoa Kỳ.

Một sứ mệnh khác mà lục quân của Hoa Kỳ và đồng minh có thể đóng góp là chiến tranh thủy lôi. Truyền thống mà nói thì tàu hải quân đặt mìn và phá mìn để giới hạn hoặc cho phép quá cảnh qua các vùng biển hẹp và eo biển. Cho dù việc phá mìn sẽ vẫn là nhiệm vụ của hải quân, các lực lượng lục quân có thể đóng góp một vai trò lớn hơn vào việc thả mìn, đặc biệt là nếu họ đóng quân gần các eo biển nối liền biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa (Biển Đông–ND) đến đại dương. Vũ trang với khả năng đặt mìn từ những căn cứ từ đất liền bằng cách sử dụng tên lửa tầm ngắn, trực thăng, hoặc sà lan. Các lực lượng lục quân của Hoa Kỳ và đồng minh có thể làm cho một vùng biển rộng nằm ngoài tầm với cho Hải quân Trung Quốc. Các bãi mìn ở những nút cổ chai then chốt dọc theo chuỗi đảo thứ nhất sẽ gây rắc rối cho thế tấn công trên biển của Trung Quốc và cản trở khả năng của Trung Quốc quấy rối các lực lượng hải quân của đồng minh. Các khẩu đội tên lửa chống tàu ven bờ biển, trong khi ấy có thể làm cho cuộc hành quân phá mìn của chiến hạm QĐGPND rủi ro.

Về lâu về dài thì những lực lượng lục quân cũng có thể yểm trợ cho các cuộc hành quân chống lại lực lượng tàu ngầm đang lớn mạnh của Trung Quốc. Một tàu ngầm cốt dựa vào sự bí mật để phòng ngự; một khi bị phát hiện, nó phải lẩn tránh đụng độ hoặc là chuẩn bị nguy cơ cao bị hủy diệt. Bằng cách đặt các thiết bị thu nhận tần số thấp và thu âm ở vùng biển quanh chuỗi quần đảo thứ nhất, Hoa Kỳ và đồng minh có thể bổ sung khả năng của họ nhằm phát hiện sự hiện diện của tàu ngầm Trung Quốc. Các đơn vị pháp binh duyên hải tiếp theo có thể dùng các ngư lôi phóng từ hỏa tiễn để buộc các tàu ngầm hủy bỏ nhiệm vụ và rút lui.

Nếu Trung Quốc xâm chiếm một đồng minh hoặc đối tác của Hoa Kỳ, ngay cả một lực lượng nhỏ lục quân cũng có thể yểm trợ các lực lượng địa phương kháng cự mãnh liệt. Những cuộc xung đột gần đây ở Đông Nam Á và Trung Đông đã cho thấy rằng những kết quả gì một lực lượng lục quân không chính quy cỡ trung bình có thể gặt hái được nhờ sự yểm trợ của vũ khí hiện đại và các cố vấn có khả năng. Nhờ sự trợ giúp của các cố vấn Hoa Kỳ và không lực, một quân đội miền Nam Việt Nam bị áp đảo về quân số co thể chống trả lại một cuộc tấn công toàn diện bởi các lực lượng Bắc Việt vào năm 1972. Gần ba thập niên sau đó, vào năm 2001, một lực lượng nhỏ Đặc Nhiệm Biệt phái của Hoa Kỳ, yểm trợ bởi máy bay cường kích, đã giúp Lực lượng Liên minh Phương Bắc Afghanistan đánh bại Taliban. Và vào năm 2006, các chiến binh Hezbollah ở Lebanon với sự giúp đỡ của các cố vấn Iran, đã đánh cho Lực lượng Phòng Vệ Do Thái đến chỗ bế tắc trong một tháng. Một nỗ lực tương tự ở Thái Bình Dương của các lực lượng lục quân Hoa Kỳ có thể khiến cho chuyện xâm chiếm và chiếm đóng lãnh thổ là chuyện phải trả giá cực kỳ đắt cho Trung Quốc, đặc biệt là nếu các lực lượng địa phương cũng được huấn luyện kỹ càng và trang bị tốt. Có súng cối, tên lửa, và hỏa tiễn phòng không vác vai tầm ngắn và dẫn đường chính xác sẽ tối đa hóa tầm sát thương của các đơn vị du kích nhỏ.

Bằng việc gánh vác trách nhiệm lớn hơn cho chuyện khước từ QĐGPND kiểm soát không phận và hải phận mà họ cần để triển khai các cuộc hành quân tấn công, các lực lượng lục quân có thể giải vây cho các lực lượng không quân và hải quân của Hoa Kỳ và đồng minh để thi hành các nhiệm vụ mà chỉ có họ có thể hoàn thành như viễn thám và không tập. Giả như chuyện ngăn chặn không thành, những lực lượng không quân và hải quân sẽ là then chốt để phòng thủ chuồi quần đảo thứ nhất và cân bằng những lợi thế của QĐGPND. Lấy ví dụ, QĐGPND có thể tập trung lực lượng ở bất kỳ điểm nào dọc theo chuỗi quần đảo thứ nhất nhanh chóng hơn Hoa Kỳ và đồng minh vì họ có quân đội phân tán mỏng hơn. Và họ không cần phải lo về những lợi ích quốc gia trái ngược nhau. (Trong trường hợp bị Trung Quốc tấn công cấp tập vào một hòn đảo, những quốc gia dọc theo chuỗi quần đảo sẽ có khuynh hướng cầm chân những lực lượng của họ để phòng thủ quê nhà của họ.) Bằng cách giảm thiểu chuyện cần đến các lực lượng không quân và hải quân cho những nhiệm vụ như chống xâm nhập không và hải phận, các lực lượng lục quân sẽ cho phép những lực lượng không quân và hải quân ở vị trí dự bị, sẵn sàng nhanh chóng tiến vào bảo vệ những nút bị đe dọa trong chuỗi đảo.

(Còn tiếp…)

Andrew F. Krepinevich Jr., Foreign Affairs số tháng Giêng/Hai 2015
Neofob chuyển ngữ

(Tạp chí Phía trước)

Không có nhận xét nào: