Pages

Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2014

CUỘC CHIẾN PHÁP LÝ VỀ HOÀNG SA Ở LIÊN HỢP QUỐC

BienDong.Net: Từ đầu tháng 5 đến nay, đã diễn ra cuộc đấu tranh về vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa ở Liên hợp quốc thông qua các công hàm ngoại giao và tài liệu kèm theo.
Việt Nam đã 3 lần gửi công hàm và 2 lần gửi tài liệu lập trường lên Liên hợp quốc đưa ra những luận chứng khẳng định chủ quyền của Việt Nam; Trung Quốc cũng đã 2 lần gửi tài liệu lập trường lên Liên hợp quốc đưa ra quan điểm của họ về vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa.
Trong các công hàm của mình Việt Nam khẳng định các nhà nước phong kiến Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền của mình một cách liên tục phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, đồng thời đưa ra các dẫn chứng cụ thể về hoạt động của Đội Hoàng Sa do triều đình nhà Nguyễn cử ra Hoàng Sa.

Công hàm và tài liệu của Việt Nam cũng khẳng định trong thời kỳ Pháp thuộc, Pháp đã nhân danh nhà nước Việt Nam quản lý và thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Pháp đã có nhiều hành động cụ thể thực thi chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa như: lập cơ quan đồn trú tại Hoàng Sa để quản lý hành chính, kể cả việc cấp các giấy chứng sinh cho các công dân Việt Nam sinh ra ở Hoàng Sa (báo chí Việt Nam vừa qua viết nhiều về giấy khai sinh của bà Mai Kim Quy sinh ra ở Hoàng Sa và được cơ quan hành chính của Pháp ở Hoàng Sa cấp); xây dựng các trạm khí tượng thủy văn được Tổ chức khí tượng thủy văn quốc tế công nhận; xây dựng đèn biển… Pháp cũng đã nhiều lần có công hàm trao đổi với Trung Quốc về vấn đề Hoàng Sa, phản đối các yêu sách của Trung Quốc, thậm chí 2 lần đề nghị Trung Quốc giải quyết bất đồng thông qua Trọng tài quốc tế nhưng Trung Quốc đều từ chối.
Đặc biệt, tài liệu của Việt Nam đã nhấn mạnh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa đã được quốc tế thừa nhận tại Hội nghị hoà bình San Francisco năm 1951 thông qua phát biểu của Thủ tướng Quốc gia Việt Nam ngày 7 tháng 9 năm 1951 khẳng định các quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Trong khi đó Hội nghị này đã bác bỏ đề nghị của Liên Xô về việc giao quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Các tài liệu và công hàm của Việt Nam khẳng định: Sau khi rút khỏi Việt Nam, Pháp đã bàn giao việc quản lý quần đảo Hoàng Sa cho Chính phủ quốc gia Việt Nam sau này gọi là Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Việt Nam đã thực thi có hiệu quả chủ quyền của mình thông qua các hành động cụ thể. Tài liệu của Việt Nam nhấn mạnh: “Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc sử dụng vũ lực chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ngay lúc đó, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đều đã ra tuyên bố bày tỏ quan điểm và phản đối hành động của Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc họp khẩn cấp về hành vi sử dụng vũ lực của Trung Quốc. Theo luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, việc sử dụng vũ lực chiếm đóng một vùng lãnh thổ không thể tạo ra chủ quyền”.
Trong các tài liệu lập trường gửi Liên hợp quốc hôm 09/6 và 24/7 Trung Quốc đưa ra một số luận điểm về cái gọi là “chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa” nhưng không đưa ra được dẫn chứng cụ thể nào để chứng minh cho các luận điểm của họ. Những luận điểm của Trung Quốc rất mơ hồ và không chính xác, thậm chí Trung Quốc đã viện dẫn và giải thích một cách sai lệch nhiều tài liệu của Trung Quốc cũng như của quốc tế.
Trong tài liệu gửi lên Liên hợp quốc ngày 22/8/2014, Việt Nam đã đưa ra các lập luận bác bỏ hoàn toàn những luận điểm của Trung Quốc. Tài liệu này đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể để bác bỏ “luận cứ của Trung Quốc cho rằng nước này đã thực thi quyền tài phán đối với quần đảo Hoàng Sa từ thời Bắc Tống” như: Địa lý chí trong Tống Sử đã cho thấy rõ điểm cực nam của Trung Quốc đời nhà Tống là Quỳnh Nhai (tên gọi cổ của đảo Hải Nam). Trên nhiều bản đồ được vẽ vào thời kỳ này (ví dụ bản đồ “Cửu Vực Thú lệnh đồ” năm 1121 được tìm thấy năm 1960 tại tỉnh Tứ Xuyên) cho thấy Quỳnh Nhai (Hải Nam) là điểm cực nam lãnh thổ Trung Quốc. Các bản đồ của Trung Quốc cho đến nửa đầu thế kỷ 20 cũng cho thấy điều tương tự.
Hội nghị Cairo và Hội nghị Potsdam hoàn toàn không đề cập đến vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa (cũng như không đề cập đến chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa). Do đó, tài liệu của Trung Quốc cho rằng chủ quyền đối với quần đảo này đã được “trả lại” cho Trung Quốc trong bối cảnh kết thúc Chiến tranh thế giới thứ 2 là hoàn toàn bịa đặt.
Về cái gọi là “một số phát biểu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được coi là Việt Nam “thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa”, tài liệu lập trường ngày 22/8/2014 của Việt Nam nêu rõ: “Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm ở phía nam đường giới tuyến, thuộc thẩm quyền duy nhất của Việt Nam Cộng hoà. Việt Nam Cộng hoà, trong thời kỳ này, đã thực thi một cách hữu hiệu chủ quyền của mình và thực hiện nhiều hành vi quản lý đối với lãnh thổ này. Nội dung phát biểu của đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được đề cập trong Công hàm của Trung Quốc cho dù có được diễn giải như thế nào đi chăng nữa cũng không có hệ quả pháp lý, vì hai quần đảo này không thuộc thẩm quyền lãnh thổ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.
Việc tài liệu ngày 24/7/2014 của Trung Quốc nói rằng “tháng 1/1974, Trung Quốc thực hiện quyền tự vệ là một sự xuyên tạc lịch sử. Tài liệu ngày 22/8/2014 của Việt Nam khẳng định rõ “Hành động quân sự của Trung Quốc tháng 01 năm 1974 chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực không thể được biện minh là việc thực thi quyền tự vệ chính đáng. Khi đó Việt Nam Cộng hoà đang chiếm hữu một cách hoà bình quần đảo này và đã bị quân đội Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đánh bật ra khỏi quần đảo bằng vũ lực. Yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa không thể làm thay đổi tính chất bất hợp pháp của việc sử dụng vũ lực, đi ngược lại nguyên tắc giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế”.
Việc Trung Quốc không chấp nhận Hoàng Sa có tranh chấp và không đàm phán với Việt Nam đã bị tài liệu của Việt Nam với những luận cứ xác đáng bác bỏ. Tài liệu ngày 22/8/2014 của Việt Nam nhấn mạnh: “Phủ nhận sự tồn tại tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa là phủ nhận một sự thực hiển nhiên. Sự tồn tại tranh chấp này đã được chính Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình công nhận một cách rõ ràng vào năm 1975. Điều này đã được ghi lại trong Bị Vong lục của Bộ Ngoại giao Trung Quốc năm 1988”. Tài liệu của Việt Nam cũng thể hiện rõ thiện chí giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông: “Trong khi Trung Quốc phủ nhận một cách thiếu thiện chí có tồn tại tranh chấp về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, thì Việt Nam, trung thành với nguyên tắc giải quyết một cách hoà bình các tranh chấp quốc tế, vẫn mong Trung Quốc sẽ giải quyết tranh chấp này, không phải bằng những tuyên bố mang tính áp đặt hoặc bằng các hành vi mang tính đe doạ, mà thông qua các biện pháp hoà bình. Đây chính là nguyên tắc đã được Trung Quốc, cũng như các thành viên khác của Liên hợp quốc, chấp nhận”.
Việc Việt Nam và Trung Quốc đưa ra những lập luận tranh cãi về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa là có lợi cho Việt Nam vì mấy lẽ sau:
Một là, thực chất đây là việc làm để quốc tế hóa vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa. Trong lúc Trung Quốc khăng khăng nói rằng Hoàng Sa là “của Trung Quốc, không có tranh chấp” và không chấp nhận đàm phán với Việt Nam về vấn đề này thì việc mỗi bên đưa ra các lập luận của mình gửi lên Liên hợp quốc là một minh chứng về sự tồn tại tranh chấp đối với Hoàng Sa;
Hai là, Việt Nam có cơ sở pháp lý và lịch sử về chủ quyền đối với Hoàng Sa vững chắc hơn so với Trung Quốc. Việc tranh luận này sẽ giúp thế giới hiểu rõ bản chất của sự việc và thấy được chính nghĩa của Việt Nam trong vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa.
Trong bối cảnh Trung Quốc không chấp nhận giải quyết tranh chấp ở Biển Đông tại các cơ quan tài phán quốc tế thì đây chính là một cuộc tranh luận về pháp lý liên quan đến chủ quyền ở Hoàng Sa. Thời gian qua, Việt Nam đã đẩy Trung Quốc buộc phải đưa những quan điểm của họ về quần đảo Hoàng Sa ra Liên hợp quốc để Việt Nam có cơ hội đưa ra lập luận bác bỏ những luận điệu sai trái của Trung Quốc. Đây là việc làm đúng đắn và có lợi cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa. Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy cách làm này. Nếu Trung Quốc tiếp tục đưa công hàm hoặc tài liệu mới ra Liên hợp quốc thì Việt Nam cần tiếp tục đưa ra Liên hợp quốc các tài liệu lập luận để phản bác.
Trung Quốc đang ở vào thế tiến thoái lưỡng nan trong cuộc tranh luận pháp lý về Hoàng Sa ở Liên hợp quốc vì một mặt Trung Quốc không muốn quốc tế hóa tranh chấp, nhưng mặt khác không thể im lặng khi Việt Nam đưa ra Liên hợp quốc các lập luận khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa. Đây là một “nước cờ” hay trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam bằng biện pháp hòa bình.
BDN

Không có nhận xét nào: