Pages

Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012

“Bất cứ ai làm cho đất nước suy hèn đều có tội với Tổ tông và dân tộc”


Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Tiến sĩ Sử học
TS Nguyễn Nhã thuyết trình tại Hội thảo San José tháng tư 2010 hoangsa.org
Hoàng Sa ơi, Việt Nam ơi,
Hoàng Sa mãi mãi của người Việt ta
Ðừng ai vô cảm Hoàng Sa
Ðể mà mang tội ông cha muôn đời
Cũng đừng làm nước suy đồi,
Lịch sử phán xét ôi thôi còn gì!
Mỗi người kế hoạch khả thi
Sao cho nội lực ai bì kịp ta!
Xâm lăng, tàm thực tránh xa
Ðừng hòng làm nhục nước nhà Việt Nam,
Biển Ðông bắt nạt ngư dân!
Ðừng hòng xử ép, nào thân nỗi gì!
Tháng 8 năm 2011, tôi cùng nhà cựu ngoại giao Dương Danh Dy nói chuyện về Hoàng Sa & Trường Sa tại Trường Ðại học Ngoại thương ở Hà Nội. Một nữ sinh viên đã phát biểu một câu nói bất hủ: “Bất cứ ai vô cảm với Hoàng Sa & Trường Sa đều có tội với Tổ tông và dân tộc,” sau khi nghe tôi nói: “Bất cứ ai làm cho đất nước suy hèn đều có tội với Tổ tông và dân tộc”!

Tôi cũng đã từng nói: “Sự thật lịch sử chỉ có một. Lịch sử rất công bằng và nghiêm khắc với bất cứ ai kể cả nhà sử học”!
Gần đây xảy ra câu chuyện giữa một du học sinh Việt Nam với các du học sinh Trung Quốc, du học sinh Việt Nam trên đã tỏ ra rất lúng túng khi trao đổi về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Ðông!
Từ hồi tôi còn trẻ, hơn 30 tuổi cho đến nay đã bảy mươi tư tuổi, tôi vẫn đeo đuổi đi tìm sự thật về chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa.
Ngày 20 tháng 1 năm 1975, nhân kỷ niệm một năm ngày Trung Quốc dùng võ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa, tôi cùng Võ sư Trần Huy Phong và GS Ngô Gia Hy tổ chức triển lãm trưng bày tư liệu lịch sử minh chứng chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa ở Thư viện Quốc Gia tại Sài Gòn. Với tính cách Trưởng ban tổ chức, tôi phát biểu, đã xúc động không cầm được nước mắt và như báo Sóng Thần hồi ấy đưa tin mọi người ôm nhau khóc ròng!
Trong cuộc hội thảo quốc tế về Biển Ðông lần thứ ba tại Hà Nội cuối năm 2011 vừa qua, một học giả Trung Quốc đã phát biểu rằng trong các thế kỷ vừa qua Trung Quốc đã bị các nước phương Tây xử ép và làm nhục; thời nay đã khác và kêu gọi các nước Á Ðông đoàn kết với Trung Quốc! Tức thì tôi đã phát biểu rằng vậy thì Trung Quốc có chia sẻ với Việt Nam đang bị xử ép và làm nhục không?
Cũng trong hội thảo quốc tế trên, để phản bác một học giả khác của Trung Quốc phát biểu rằng sự kiện Trung Quốc đăng ký với Ủy ban Ðăng ký Thềm lục địa LHQ “Ðường lưỡi bò” ở Biển Ðông chỉ là sự kế thừa lịch sử. Tôi đã hỏi rằng vậy quý học giả đã kế thừa, tiếp cận được hay không sự kiện lịch sử năm 1909, chính quyền Quảng Ðông cho là Paracels tức Hoàng Sa là đất vô chủ (res-nullius), đã tổ chức chiếm hữu theo phương cách phương Tây như đem tàu chiến đến bắn 21 phát súng, cắm cột mốc chủ quyền… và đã tiếp cận được hay không biết bao tài liệu của phương Tây bằng nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha,… Paracel đã thuộc về từ lâu chủ quyền của xứ An Nam hay Cochin China – Xứ Ðàng Trong của Ðại Việt hay chưa? Và có biết đến luận án tiến sĩ sử học của tôi về “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa” hay không? Và để lấp đầy sự khác biệt về lịch sử, tôi đề nghị nên có một hội thảo quốc tế về chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa.
Ngày 16 tháng 6 năm 2012, từ Việt Nam, mặc dù tuổi đã cao, tôi vẫn cố lặn lội đến Boston, chỉ cốt nói với các du học sinh tại trường Ðại học Harvard, một đại học uy tín chất lượng cao nổi tiếng trên thế giới về sự thật lịch sử chủ quyền tại Hoàng Sa & Trường Sa với ước mong các bạn du học sinh ở trường Harvard giúp tôi hoàn chỉnh bản tiếng Anh hơn 500 trang hồ sơ tư liệu về chủ quyền củaViệt Nam tại Hoàng Sa & Trường Sa, cùng giúp tôi đưa đến các thư viện có trong danh sách mà năm 1960, Headquarters, U.S. Pacific Broadcasting and Visual Activity AP0331 đã gửi tài liệu “Analysis on The Spratley-Paracel Islands Dispute,” No 010660.
Trong hơn 500 trang tư liệu kể trên,tôi chỉ mong các bạn lưu ý, tập trung thảo luận và quảng bá 3 thông tin chi tiết cụ thể sau đây:
Một là Ðại Việt sử ký tục biên (1676-1789) do các sử thần thời Lê – Trịnh biên soạn theo lệnh của Trịnh Sâm năm 1775, đã nói rõ về hoạt động của đội dân binh Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải và có đoạn viết: “Ðặt đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào đội ấy, cắt lượt nhau đi thuyền đến đảo mò tìm sản vật. Mỗi năm cứ tháng Ba ra đi, mang lương ăn sáu tháng, đi thuyền ra biển ba ngày ba đêm mới đến đảo…”, “Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được…” (Quyển 2, từ tờ 82b-85a).
Hai là Ðại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, quyển 52 (đời vua Gia Long) một lần nữa lại ghi rõ ràng: “Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816), vua Gia Long ra lệnh cho thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để xem xét và đo đạc thủy trình…”. Trong khi những tài liệu của những người phương Tây từng hoạt động trong Triều Gia Long như Chaigneau, Taberd đã công bố những hành động của vua Gia Long cụ thể hơn. Chaigneau, đã viết trong hồi ký Le mémoire sur la Cochinchine:  “Chỉ đến năm 1816, đương kim hoàng đế đã chiếm hữu quần đảo ấy” hay Giám Mục Taberd viết: “Chính là vào năm 1816 mà ngài (vua Gia Long) đã long trọng cắm tại đó lá cờ của xứ Ðàng Trong. Gutzlaff năm 1849 đã cho biết chính quyền Việt Nam thời Gia Long đã thiết lập một trại quân nhỏ để thu thuế và bảo trợ người đánh cá Việt Nam”. Ðặc biệt năm 1838, Giám mục Taberd đã vẽ bản đồ có tọa độ An Nam Ðại Quốc Họa Ðồ đính kèm trong cuốn tự điển Latin – An Nam ghi rõ Paracel seu Cát Vàngseu tiếng Latin có nghĩa hay là.
Ba là phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) trong tập châu bản Minh Mạng 55 trang 336, ghi lời châu phê của vua Minh Mạng: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ: “Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu”. Vua cũng phê rằng, “thuyền đi đâu, phải cắm cột mốc đến đó để lưu dấu”. Phúc tấu cũng còn ghi chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật được phái từ Thuận An vào Quảng Ngãi để đi công tác Hoàng Sa.
Trong khi chính sử, Ðại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 165 (đời vua Minh Mạng), viết rất rõ quan điểm của Bộ Công và hoạt động của Bộ này tại Hoàng Sa: “Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836) (năm Ðạo Quang thứ 16 đời nhà Thanh) Bộ Công tâu: ‘Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển nước ta, rất là hiểm yếu, từng sai vẽ bản đồ riêng về hình thế xa rộng, ta mới chỉ vẽ được một, rồi lại cũng chưa biết vẽ nên làm thế nào. Hàng năm, thường phái người đi xem xét cho khắp để thông thuộc đường biển. Xem từ năm nay về sau, mỗi khi đến hạ tuần Tháng Giêng, chọn phái thủy quân biền binh và giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, giao cho 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, thuê 4 chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, bãi cát nào, phàm khi thuyền đến nơi, tức thì cứ chiếu chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, và nước biển, bãi biển xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở bình dị thế nào, phải xem xét đo đạc rõ ràng, vẽ thành bản đồ…’”.
Ðại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 165 còn chép: “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật điều binh thuyền đi đem theo 10 cái bài gỗ dựng bàn dấu mốc, chủ quyền”. Mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ Hán: “Minh Mạng thập thất niên (1836), Bính Thân, thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa đương độ chí thủ lưu chí đẳng tự”.
Với kiến thức về pháp lý quốc tế từ đầu thế kỷ đến nay cùng những thông tin lịch sử cụ thể trên thì chắc chắn các bạn không thể lúng túng khi tranh luận với các bạn trẻ Trung Quốc về Hoàng Sa & Trường Sa. Dù thế nào đi chăng nữa, dù lý của kẻ mạnh như thế nào chăng nữa thì lịch sử dân tộc ta không cho phép chúng ta hèn yếu. Như tôi đã từng nói: “Muốn lấy lại Hoàng Sa, giữ những gì còn lại của Trường Sa thì mỗi người Việt Nam phải có một kế hoạch nhỏ xây dựng nội lực đất nước hùng cường”.
Ðầu thế kỷ 20, cụ Phan Bội Châu đã khởi xướng phong trào Ðông Du hầu canh tân đất nước hùng cường để cứu nước. Nay chúng ta đang có phong trào thế giới du. Không có cách nào khác, trước những nguy cơ chưa từng có tại Biển Ðông, các bạn trẻ Việt Nam không phân biệt chính kiến, hãy cùng nhau dẹp bỏ những gì “xấu xí” của người Việt như quá ham những tư lợi hại nước hại dân, thiếu đoàn kết, đố kỵ khích bác lẫn nhau… mà phải có lòng yêu nước chân chính có tâm, có tầm như người Nhật Bản để cùng nhau xây dựng nội lực đất nước hùng cường. Mong vậy thay!
N.N.
Nguồn: Người Việt
———————————————————
Tiến sĩ Sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã: Đưa Hoàng Sa – Trường Sa ra với thế giới
Lê Thanh Phong
Ngày 29.4.2012, Tiến sĩ Nguyễn Nhã lên đường sang Mỹ để thực hiện một công việc mà ông cho rằng rất quan trọng đối với ông, đó là hoàn thành bản dịch ra tiếng Anh công trình “Hồ sơ tư liệu chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa” mà ông đã dày công nghiên cứu thực hiện trong mấy chục năm qua.
Đảo Trường Sa Lớn – Ảnh: Đỗ Hùng
Quen biết với Tiến sĩ Nguyễn Nhã đã lâu, qua nhiều lần trao đổi, làm việc, mới hiểu được ông là người có niềm đam mê rất lớn về nghiên cứu sử học và ông đã lựa chọn đường đi “sử học” của mình là Hoàng Sa – Trường Sa. Ông từng tâm sự, trước đây khi làm đề cương luận án tiến sĩ về đề tài này, một người bạn thân trong giới khoa học khuyên ông “không nên nhảy vào ổ kiến lửa”, còn một vị giáo sư khác lại phát biểu trong hội đồng xét duyệt đề cương luận án rằng “đề tài này phải là cấp quốc gia, một cá nhân không làm được”. Ông biết, không phải họ không tin vào năng lực nghiên cứu khoa học và sử học của ông, nhưng có một điều gì đó khiến họ không tin là ông sẽ làm được, ít nhất là khó tiếp cận được các nguồn thông tin, tư liệu thuộc loại “thâm cung bí sử” này.
Nhưng những lời can gián chân thành đó không ngăn được ông. Ông chọn một con đường quá chông gai, khó tìm được sự hợp tác. Vào thời điểm đó, ít ai nhận ra tầm quan trọng của nó, nhưng đến bây giờ, ai cũng có thể hiểu được rằng, may mà có một Nguyễn Nhã dấn thân vào con đường khoa học với đề tài lịch sử liên quan đến chủ quyền của quốc gia trên biển Đông và hai quần đảo phên giậu của tổ quốc, ngay từ khi ông còn là chủ biên Tập san Sử Địa số 29, đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa (1975).
TS Nguyễn Nhã nói vui, nhưng thực lòng rằng, ông có cái tật không chữa được, đó là đã say mê cái gì rồi làm cho tới cùng và cái mà ông say mê bao nhiêu năm qua là đi tìm mọi chứng cứ, tư liệu lịch sử để chứng minh chủ quyền của VN trên biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Ông đã làm được khá nhiều, nhưng với ông thì vẫn chưa tới cùng, ở cái tuổi ngoài 70, ông vẫn còn mang nỗi khát khao được đi thêm một chặng nữa với Hoàng Sa và Trường Sa, xem đó như là sứ mệnh của đời mình.
Chặng đó là gì, như ông nói, là phải đưa được công trình khoa học chứng minh chủ quyền của VN trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ra với thế giới. Trong thời gian qua, TS Nguyễn Nhã và các cộng sự, với sự giúp đỡ của Quỹ biển Đông, đã dịch công trình “Hồ sơ tư liệu chủ quyền của VN tại Hoàng Sa và Trường Sa” ra tiếng Anh. Công trình này gồm có ba phần. Phần thứ nhất là tư liệu của Bộ Tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương và các tài liệu của phương Tây từ thế kỷ 19 trở về trước, chứng minh chủ quyền của VN trên biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Phần thứ hai là các tham luận của TS Nguyễn Nhã tại các hội thảo về biển Đông được tổ chức tại VN, Pháp và Mỹ. Phần thứ ba là toàn văn luận án tiến sĩ “Quá trình xác lập chủ quyền của VN tại Hoàng Sa và Trường Sa” của TS Nguyễn Nhã, có thêm phần phụ lục bổ sung các tư liệu mới. Theo TS Nguyễn Nhã, năm trước, ông gửi hồ sơ tư liệu này cho Văn phòng Quốc hội Mỹ, ông Jim Webb – Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain và Hội Địa lý quốc gia Mỹ, cùng Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quan hệ quốc tế Mỹ.
Chuyến đi Mỹ lần này TS Nguyễn Nhã sẽ cùng các chuyên gia hoàn thiện bản dịch tiếng Anh và sau đó sẽ gửi cho thư viện các trường đại học có ngành học Châu Á học ở Mỹ và gửi cho Thư viện Quốc hội Mỹ. Thư viện này có chi nhánh nhiều nơi trên toàn nước Mỹ. TS Nguyễn Nhã cho biết, trong chuyến đi năm 2011, ông đã gặp gỡ, trao đổi với các nhà khoa học VN và Mỹ về các vấn đề chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa – Trường Sa, nói chuyện với cộng đồng người Việt, có cả người Mỹ về đề tài biển Đông, giới thiệu về công trình nghiên cứu của ông. Các buổi trao đổi đó rất được giới khoa học và Việt kiều quan tâm. Có nhiều người đề xuất về việc in và quảng bá công trình bằng tiếng Anh, đó cũng là sự động viên để ông xúc tiến nhanh công trình bản tiếng Anh.
Lần này, mục tiêu đặt ra là phải giới thiệu đến với các trường đại học và các cơ quan, tổ chức quan tâm đến vấn đề biển Đông, để họ có cơ hội tiếp cận với sự thật lịch sử rằng, VN có chủ quyền và quyền tài phán trên biển Đông và Hoàng Sa -Trường Sa. TS Nguyễn Nhã khẳng định, VN là quốc gia mạnh nhất về tư liệu lịch sử chứng minh về chủ quyền, chưa có một quốc gia nào có đủ chứng cứ lịch sử được như vậy. Riêng Trung Quốc thì hoàn toàn không có mà chỉ suy diễn. Ông nói: “Cái mạnh của VN là chứng cứ lịch sử đầy đủ, không khai thác thế mạnh đó là uổng phí. Tôi quá sốt ruột nên phải bắt tay vào làm. Trong nước đã làm được một bước, bước tiếp theo là công bố cho cộng đồng thế giới biết về chủ quyền của VN trên biển Đông”.
Trả lời về vấn đề các nguồn tài trợ để thực hiện những công việc quan trọng này, TS Nguyễn Nhã cười nhưng cũng có đôi chút tâm tư, bởi vì không có bất cứ nguồn tài trợ nào từ Nhà nước hay các tổ chức, mà là tiền riêng và sự hỗ trợ của bạn bè, người thân. Ông tự bỏ tiền túi ra để mua vé máy bay, sang Mỹ thì có người thân đưa đón, lo ăn ở. Thế thôi. Nhưng mà biết làm sao được, lòng yêu nước thương nòi có ai tính toán bằng tiền bạc, kể cả máu xương.
L.T.P.
Nguồn: Lao động

Không có nhận xét nào: